Theo
Nguyễn Thị Dung, viết trong sách kỷ yếu hội thảo khoa học về U Minh Thượng, năm
1997, do Sở Văn Hoá Thông Tin xuất bản.
Ngay
từ buổi đầu, người dân đất Việt đi tìm đường mở cõi đến vùng đất mới này thấy
quang cảnh âm u vắng lặng nên cất tiếng gọi U Minh. U Minh là cụm từ chỉ chung
về miền đất ấy chứ không phải hàm ý đặt tên rừng. Lúc đó người dân chưa hề gọi
tên rừng U Minh. Chỉ khoảng 45 năm trở lại đây, người dân nước ta mới biết đến
tên rừng U Minh. Những người dân đất Việt sinh sống ở “miền ngoài” thường dùng
nhóm từ “Miền trong” để chỉ vùng đất thấp phía cuối Tây Nam của Tổ quốc. Hiện
nay để chỉ về rừng U Minh, như vậy cụm từ U Minh ngày xưa được sử dụng như một
tính từ trong ngôn ngữ. Về sau, vùng đất này có nhiều lưu dân đến khai phá nên
U Minh đã bị phân hóa thành ruộng, vườn… thì trước cụm từ U Minh mới có thêm từ
rừng và nó được nâng lên vị trí danh từ riêng với chức danh là một địa danh.
Chúng
ta là lớp người đi sau, nên có những phút suy nghĩ thế hệ những người đi trước,
và cũng thật sự bái phục người dân nào đã cất tiếng gọi lần đầu tiên hai tiếng
U Minh. Cho đến bây giờ, trong ý thức của mỗi người hai tiếng U Minh được hiểu
là vùng đất “Tối tăm mù mịt” cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, người ghép tên cho
vùng đất này là U Minh, chính họ để ám chỉ một vùng đất xa xôi, yên lặng, sâu
kín, tối tăm nhưng cũng có chỗ sang, chỗ tối. Thuộc khu rừng thấp ở ven biển,
bao gồm những cây đối mặt với biển như: cây vẹt, cây bần, cây mấm, cây cốc… Được
phát sinh và tồn tại trong những điều kiện là rừng tràm thuần chủng, nhiều thế
hệ cây tràm mọc chen nhau dày đặc, bạt ngàn. Và có nhiều lại cây rang, cây dớn,
dây choại leo trèo chằng chịt, hay những loài cây chịu ngập nước như: cây sậy,
cây đế, cây nga… Tùy theo địa hình, địa mạo, tùy trạng thái thủy văn, thời tiết
mà lòng rừng có thể có biểu hiện khác nhau. Trong rừng gió mùa khô, hàng hàng lớp
lớp những thân tràm đổ xô vượt lên sừng sững, những tán lá tràm rợp nhau che
kín khung trời. Trong mùa mưa, mặt nước tạo cho lòng rừng một bình diện phẳng lặng,
yên tĩnh đến lạ thường, dưới nước những tán lá tràm, thiên nhiên đã trải một tấm
thảm xanh rờn bởi những bèo cám, bèo tai tượng long lanh dưới nắng rừng loang lổ.
Người
ta gọi nơi đây là cõi U Minh để chỉ nơi bao la, chốn mịt mù. Vì nơi đây trước
kia là rừng rậm mịt mùng, nơi ngự trị của các loài thú dữ, rắn độc, cá sấu, đỉa,
vắt, muỗi, mòng… Ai bị tình thế bắt buộc phải phiêu bạc đến đây, coi như đi vào
cõi chết. Nhưng dần dần người ta phát hiện vùng đất này thuộc loại màu mỡ hiếm
có. Và người ta bắt đầu khai phá. Mãi về
sau, trên vùng đất ấy được khai phá có ranh giới rõ rệt, giữa rừng và đồng ruộng.
Khi
người dân đã khai phá dần dần để lấy đất trồng lúa, trồng cây hoa màu… thì vùng
ven của khu rừng được minh họa bằng 10 con rạch dẫn nước ra biển, có tên rạch
Thứ nhứt, Thứ hai, Thứ ba… Thứ mười. ngày nay dân gian gọi chung là Miệt Thứ.
Trong
điều kiện thuộc vùng đất thấp, vùng nhiệt đới những thân cây tràm bị chôn vùi lấp
trong lòng đất, khi người dân tìm thấy được gọi là tràm lụt. Cũng trong vùng đất
nhiệt đới này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành than bùn.
Kể
từ ngàn xưa đã xuất hiện nhiều huyền thoại về dãy đất vùng U Minh như huyền thoại
về thiên nhiên hoang sơ bịt bùng như cõi âm, huyền thoại về tài nguyên vô tận với
hổ vồ người, với cá sấu, với trăn, rắn, rùa và cá, huyền thoại về ong và những
sân chim, huyền thoại về những con người can trường nghĩa khí. Chính huyền thoại
U Minh đã đẻ ra sản phẩm bác Ba Phi.
Chừng
một thế kỷ về trước, nếu cho rằng U Minh là một thảo cầm viên thiên nhiên thì
có hàng trăm chủng loại, chim cò về đây nương náo ở tầng cao. Còn trên mặt đất
có khá nhiều động vật có vú sinh sống… Đặc biệt hơn mọi khu rừng khác là rừng U
Minh còn có một trữ lượng cá đồng có đến nhiều ngàn tấn trên mỗi năm.
Từ
sự khai phá của những lưu dân khắp mọi miền đất nước, thì cõi U Minh đã mất đi
nhiều và phần còn lại gọi là rừng U Minh.
Rừng
U Minh còn là nơi nuôi dưỡng và che dấu cán bộ cách mạng trong các cuộc giải
phóng ở miền Nam nước ta. Thế hệ này qua thế hệ khác, rừng U Minh còn là nơi
cung cấp các loại gỗ và nhiều động vật quý hiếm phục vụ cho việc phát triển
kinh tế trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Qua nhiều cuộc chiến tranh đã
tàn phá, nên rừng U Minh nguyên thủy đã bị mất mát đi nhiều, nhưng cơ bản diện
tích của rừng vẫn được giử vững. Thế nhưng, trong những năm gần đây, cùng với
nhiều khu rừng khác ở nước ta thì rừng U Minh đang trở thành nạn nhân của các vụ
đốt, phá bừa bãi. Đến nay tuy được gọi là rừng bảo tồn nhưng là rừng tái sinh.
Khu rừng U Minh Thượng được nằm gọn trong 2 vòng đê bao. Vòng ngoài là vương quốc
của sậy đế, vòng trong gọi là rừng bảo tồn. Và nằm giáp 3 huyện An Biên, An
Minh và Vĩnh Thuận.
Vùng
đất U Minh này ai đã khéo đặt tên. Bởi U Minh là mãnh đất xa xôi, rừng rậm nhất
đồng bằng sống Cửu Long, giao thông đi lại khó khăn. Dân U Minh sống dựa vào
cây lúa mùa một vụ và các sản phẩm của rừng, hay con cá đồng, nhà này cách nhà
kia hàng trăm mét, xóm này cách xóm kia cả cây số. Sắp bước sang thế kỷ XXI,
trong khi các nơi điện khí hóa rầm rộ thì người dân U Minh vẫn phải đốt đèn dầu,
càng vô sâu U Minh, chúng ta thấy rằng không chỉ thiên nhiên là quang cảnh âm u
đen tối mà là con người U Minh vẫn mang nét gì đó hoang sơ như thường gặp nơi
vùng núi. Có thể nói là dân trí nơi đây trình độ còn quá thấp. Đúng theo quy luật
của sự phân bố dân cư nơi xa trung tâm. Trong phát triển của một đất nước tiến
tới sự phồn vinh không thể để một tình hình dân trí thấp như vậy được, đó là
suy nghĩ trăn trở của những người có trách nhiệm ở vùng sâu.
Rừng
U Minh Thượng ngày nay được sự quan tâm của các cơ quan chức năng là dốc sức
khôi phục, bảo tồn màu xanh thiên nhiên rừng tràm theo phương hướng vững chắc
lâu dài. Nông – Lâm kết hợp khai thác kinh tế rừng cũng là gìn dữ lại khu di
tích lịch sử năm xưa đã từng “che bộ đội, vây quân thù” thời chống Pháp và chống
Mỹ.
0 Nhận xét