Nhà Thục và Nước Âu Lạc (257- 207 trước
Công Nguyên)
Theo truyền thuyết và sử cũ thì An Dương Vương
tên là Thục Phán, là cháu Vua nước Thục. Nước Thục này không phải là nước Thục
ở vùng Tứ Xuyên đời Chiến Quốc (Trung Quốc) mà là một bộ tộc đã tới vùng Bắc Bộ
từ lâu, sống xen kẽ Với Người Lạc Việt và người Thái. Tục gọi là người Âu Việt.
Chuyện Xưa kể rằng: Vua Hùng Vương có người con gái nhan sắc tuyệt vời tên là
Mị Nương. Vua nước Thục nghe tin, sai sứ sang cầu hôn. Vua Hùng Vương muốn gả
nhưng lạc hầu can rằng: Thục muốn lấy nước ta, chỉ mượn tiếng cầu hôn đó thôi. Không
lấy được Mị Nương.Thục Vương câm giận, di chúc cho con cháu đời sau thế nào
cũng phải diệt nước Văn Lang của vua Hùng. Đến đời cháu là Thục Phán mấy lần
đem quân sang đánh nước Văn Lang. Nhưng vua Hùng Vương có tướng sĩ giỏi, đã
đánh bại quân Thục. Vua Hùng Vương nói: ta có sức thần, nước Thục không sợ hay
sao ? Bèn chỉ say sưa Yến tiệc không lo việc binh bị. Bởi thế, khi quân Thục
lại kéo đến đánh nước Văn Lang, Vua Hùng còn trong cơn say. Quân Thục đến gần, vua
Hùng trở tay không kịp phải bỏ chạy rồi nhảy xuống sông tự tử. Tướng sĩ đầu
hàng. Thế là nước Văn Lang mất.
Năm
Giáp Thìn (257 trước công nguyên), Thục Phán dẹp yên mọi bề, xưng là An Dương
Vương, cải quốc hiệu là Âu Lạc, (tên hai nước Âu Việt và Lạc Việt ghép lại)
đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Phú Thọ).
An Dương Vương Dẹp Tần
Khi
An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc thì Doanh Chính nước Tần đã kết thúc mọi hỗn
chiến đời Chiến Quốc, thống nhất nước Trung Hoa, lập nên một nhà nước lớn mạnh.
Để thỏa tham vọng mở mang lãnh thổ. Doanh Chính huy động lực lượng to lớn phát
động cuộc chiến tranh xâm lược Bách Việt.
Năm
218 trước công nguyên, Doanh Chính đã huy động 50 vạn quân chia làm 5 đạo đi
Chinh Phục Bách Việt. Để tiến xuống miền Nam, đi sâu vào đất Việt, đạo quân thứ
nhất của quân Tần phải đào con kênh nối sông lương (vùng An Hưng Trung Quốc
ngày nay) để chở lương thực. Nhờ vậy, đạo quân chủ lực của quân Tần do viên
tướng lừng danh Đồ Thư thống lĩnh vào được đất Tây Âu, giết tù trưởng, chiếm
đất rồi tiến vào đất Lạc Việt. Nhân dân Lạc Việt biết không thể đương nổi quân
Tần nên bỏ vào rừng để bảo toàn lực lượng. Thục Phán được các Lạc Tướng suy tôn
là lãnh tụ chung chỉ huy cuộc kháng chiến này. Bởi vậy, khi Đồ Thư đem quân tiến
sâu vào Lạc Việt, chúng gặp khó khăn chồng chất. Quân địch tiến đến đâu, người
Việt làm vườn không nhà trống và trốn vào rừng đến đó. Chẳng mấy chốc, quân Tần
Lâm vào tình trạng thiếu lương thực trầm trọng. Khi quân Tần đã mệt mỏi, chán
nản và khổ sở vì thiếu lương, khí hậu độc địa, thì người Việt, do Thục Phán làm
tướng, mới bắt đầu xuất trận. Chính chủ tướng Đồ Thư trong một trận giáp chiến
đã bị bắn hạ. Mất chủ tướng, quân địch hoang mang mở đường máu tháo chạy về
nước. Như vậy, sau gần 10 năm lãnh đạo nhân dân Âu Việt - Lạc Việt kháng chiến
chống quân Tần thắng lợi. Thục Phán đã thực sự nắm trọn uy quyền tuyệt tối cả
về quân sự lẫn chính trị, khiến cho uy tín của Thục Vương càng được củng cố
nâng cao. Từ vị trí ấy, Thục Vương có điều kiện thi thố tài năng, xây dựng nước
Âu Lạc hùng mạnh.
Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa, công
trình Sáng tạo vĩ đại…
Sau
chiến công vĩ đại đánh thắng 50 vạn quân xâm lược nhà Tần, Thục Vương quyết
định xây thành Cổ Loa.
Tục
truyền rằng Thục An Dương Vương xây thành nhiều lần nhưng điều đổ. Sau nhờ có
thần Kim Quy hiện lên, bò quanh, bò lại nhiều vòng dưới chân thành, Thục An
Dương Vương bèn cho xây theo dấu chân rùa vàng. Từ đó, thành xây không đổ nữa. Sự
thực về truyền thuyết đó như thế nào ?
Thuở
ấy, tổ tiên ta chưa có gạch nung. Bởi vậy Thành Cổ Loa xây bằng đất ở chính địa
phương. Thành có 9 vòng chu vi vòng ngoài 8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong
1,6 km. Diện tích trung tâm lên tới 2 km vuông, Thành được xây theo phương pháp
đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu luỹ xây đến đó. Mặt ngoài
lũy thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó trong đánh ra thì dễ, lũy
cao trung bình từ 4- 5m, có chỗ 8- 12m. Chắn luỹ rộng 20- 30m, mặt Lũy rộng 6-12m.
Khối lượng đất đào đắp ước tính tới 2,2 triệu mét khối. Xem vậy công trình Cổ Loa
thật đồ sộ, trong khi khu vực Cổ Loa được coi là một nền đất yếu. Chín vì vậy,
việc xây dựng thành Cổ Loa cực kỳ khó khăn. Thành bị đổ nhiều lần là dễ hiểu.
Nhưng điều đáng tự hào là cuối cùng thành đã đứng vững. Thục An Dương Vương
biết dựa vào những kinh nghiệm thực tế để gia cố nền, móng khắc phục khó khăn. Vết
chân rùa thần chính là bí mật đã được tổ tiên khám phá, xử lý. Ngày nay, khi xẻ
dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ học thấy rõ chân thành được chẹn một
lớp đá tảng. Hòn nhỏ có đường kính 15cm, hòn lớn 60cm. Cần bao nhiêu đá để sử
dụng cho công trình ? Kĩ thuật xếp đá ? Đây quả là một kỳ công.
Thành Cổ Loa chẳng những là một công trình đồ
sộ, cổ nhất của dân tộc mà còn là công trình hoàn bị về mặt quân sự. Xung quanh
Cổ Loa, một mạng lưới kênh, mương dày đặc, tạo thành một vùng khép kín, thuận
lợi cho việc xây dựng một căn cứ thủy binh hùng mạnh. Thuở ấy, sông Thiếp - Ngũ
Huyền Khuê - Hoàng Giang thông với sông Cầu ở Thổ Hà, Quả Cảm (Bắc Ninh) thông
với sông Hồng ở Vĩnh Thanh (Đông Anh). Bởi vậy ngay sau khi xây thành, Thục An
Dương Vương đã Chiêu tập những thợ mộc giỏi, sử dụng gỗ ở địa phương đóng
thuyền chiến. Với thuật đi sông vượt bể vốn là sở Sở trường của Người Lạc Việt,
chẳng mấy chốc, các đầm phá quanh thành Cổ Loa biến thành quân cảng. Rồi nhân
dân được điều tới khai phá vùng rừng đa (Gia Lâm), rừng mơ (Mai Lâm), rừng dâu da
(Du Lâm)v,v… thành ruộng. Những hiệp thợ chuyên rèn vũ khí cũng xuất hiện. Bên
côn, kiếm, dáo, mác đủ loại, bàn tay sáng tạo của cha ông đã chế tạo nỏ liên châu,
mỗi phát bắn hàng chục mũi tên. Cũng tại Cổ Loa, kỹ thuật đúc đồng cổ đã được
vua Thục khuyến khích. Hàng chục dạng mũi tên đồng, những mũi tên lợi hại, có
độ chính xác cao, kỹ thuật tinh vi, dùng cho nỏ liên châu đã được bàn tay thợ
tài hoa sản xuất tại đây.
Với
vị trí thuận lợi ấy, với cách bố trí thành có 9 lớp xoáy trôn ốc, 18 ụ gò cao nhô
hẳn ra chân luỹ để có thể từ cao bắn xuống, với vũ khí nỏ thần và những mũi tên
đồng lợi hại, sức mạnh quân sự tổng hợp của Cổ Loa thời ấy thật đáng sợ.
Thành Cổ Loa là sự đúc kết tuyệt vời về
trí tuệ của cha ông, là công trình sáng tạo kỳ vĩ của dân tộc.
(Nguồn, Các
triều đại Việt Nam, nhà xuất bản văn học 2008)
0 Nhận xét