Nhà Triệu và nước Việt Nam
(Năm 207 - 111 trước Công Nguyên)
Nhà Trịêu được thành lập từ năm 207, đến năm 111 trước công nguyên thì bị nhà Tây Hán thôn tính trải qua 5 đời vua:
- Triệu Vũ Vương (207 - 137 trước công nguyên).
- Triệu Văn Vương (137 - 125 trước công nguyên).
- Triệu Minh Vương (125 - 113 trước công nguyên).
- Trịêu Ai Vương (113 - 112 trước công nguyên).
- Triệu Dương Vương (112 - 111 trước công nguyên).
Năm 111 trước công nguyên nhà Trịêu mới mất nhưng từ năm 113 nội tình nhà Trịêu đã rất rối ren. Lúc đó, vua nhà Hán cho An quốc Thiếu Quý sang dụ Nam Việt về chầu. Thiếu Quý nguyên là tình nhân của Cù Thị (Hoàng hậu của vua Minh Vương) nên họ tư thông với nhau và dụ dỗ Triệu Ai Vương dâng nước Nam Việt cho nhà Hán. Việc làm đó bị tể tướng Lữ Gia phát hiện. Lữ Gia đã truyền hịch đi mọi nơi nói rõ sự thật rồi cùng một số đại thần đem quân cắm binh vào giết chết sứ nhà Hán, Cù Thị và vua Ai vương, tôn Kiến Đức, con trưởng của Minh Vương lên làm vua, hiệu là Trịêu Dương Vương. Dương Vương làm vua được một năm thì bị vua Vũ Đế nhà Hán sai Phục ba Tướng quân Lộ Bắc Đức và Dương Bộc đem 5 đạo binh sang đánh lấy Nam Việt, Tể tướng lữ Gia chống không nổi bèn đem vua Dương Vương chạy trốn. Quân Hán đuổi theo bắt được, vua tôi đều bị hại. Nhà Hán thôn tính nước Nam Việt, đổi tên là Giao chỉ bộ.
Nhà Nước Sau Công Nguyên Bắc Thuộc Lần Thứ Nhất
Giao Chỉ và nhà Tây Hán
(Năm 111 trước công nguyên
năm 39 sau công nguyên)
sau khi xâm lược Việt Nam, Nhà Hán đổi thành Giao Chỉ bộ và chia ra làm 9 quận:
Nam Hải (Quảng Đông)
Thượng Ngô (Quảng Tây)
Uất Lâm (Quảng Tây)
Hợp Phố (Quảng Đông)
Giao Chỉ (Bắc Bộ)
Cửu Chân (Thanh Hóa)
Nhật Nam (Nghệ Tĩnh)
Châu Nhai (Đải Hải Nam)
Đạm Nhĩ (Đảo Hải Nam)
Nhà Hán đặt mỗi quận một viên thái thú trông coi mọi việc trong quận và viên thứ sử giám sát các quận.
Ở Giao Chỉ các Lạc Tướng, Lạc Hầu vẫn được giữ nguyên và được cha truyền con nối như trước.
Đã có nhiều viên thái thú đến cai trị các quận thuộc Âu Lạc, nhưng sách xưa nói nhiều đến Tích Quang, thái thú quận Giao Chỉ và Nhâm Diên, thái thú quận Cửu Chân, xem những viên quan này có công trong việc khai hóa dạy dân làm điều nhân nghĩa. Đến năm Giáp Ngọ (34) vua Quang Vũ nhà Hán sai Tô Định sang làm thái thú quận Giao Chỉ. Dưới ách đô hộ của Thái Thú Tô Định, gánh nặng thuế khóa và cống nạp đè lên vai người dân Giao Chỉ. Ở miền rừng núi người dân phải đi tìm chim thú lạ để cống nạp. Ở biển nhiều người mất xác vì phải mò tìm đồi mồi, ngọc châu. Trông vào ruộng nương thì bọn người Trung Nguyên kéo sang, ỷ vào thế lực của quận trị đô uý trị cướp đoạt mất tất cả những nơi màu mỡ nhất. Khắp Giao Chỉ quằng quại trong cảnh hãm hại, hà hiếp, giết chóc dân lành.
Đấu Tranh Giành Độc Lập
Hai Bà Trưng Khởi Nghiệp (40 – 43)
May mắn thay, đến những năm đầu công nguyên từ miền đất Mê Linh (Vùng Hạ Lôi,huyện Yên Lãng, Vĩnh Phúc) đã xuất hiện hai người con gái kiệt xuất Trưng Trắc và Trưng Nhị(Gia đình họ Trưng có nghề chăn tằm. Nghề chăn tằm gọi kén đầy là kén chắc, kén mỏng gọi là kén nhì. Tên gọi Trắc và Nhị từ đó mà ra) và ở Chu Diên(Thuộc quận Giao Chỉ thời Hán, nay là Hạ Mổ, Đan Phượng, Hà Tây) là chàng trai Thi Sách dũng mảnh. Bởi thế mùa xuân năm ấy, khi mùa săn ở Mê Linh bắt đầu, quan Lạc Tướng Chu Diên đã cho con trai là Thi Sách dẫn theo một toán thân binh tới Mê Linh để kết thân với họ Trưng. Ý quan Lạc Tướng Chu Diên đã rõ, hai miền đất Mê Linh và Chu Diên liên kết được với nhau thì chẳng phải chỉ tốt lành cho chuyện nhân duyên của đôi trẻ Thi Sách - Trưng Trắc mà sức mạnh của người Việt sẽ được nhân lên. Sức mạnh ấy có thể xoay chuyển tình thế, lật đổ ách đô hộ của nhà Hán, khôi phục lại nước cũ của người Việt. Ít lâu Sau, trong niềm hoan hỷ của mọi người, Trưng Trắc đã cùng Thi Sách kết nghĩa vợ chồng. Hôn lễ vẫn theo đúng lệ cũ của người Việt: vợ chồng tuy thành thân nhưng người nào vẫn ở lại đất cũ của người ấy.
Tô Định giật mình trước cuộc hôn nhân của nữ chủ đất Mê Linh với con trai Lạc tướng Chu Diên. Bởi Hắn biết rõ, đằng sau cuộc hôn nhân là sự liên kết thế lực giữa hai miền đất lớn của người Việt. Sự liên kết đang nhân bội sức mạnh chống lại nền đô hộ của nhà Hán. Linh cảm thấy trước một cuộc biến sẽ xảy ra mà cội nguồn của nó từ đất Mê Linh. Tô Định hoảng hốt tìm cách triệt phá vây cánh của Trưng Trắc bằng cách đem đại binh đột ngột kéo về Chu Diên, bắt giết Thi Sách, xem như đòn trấn áp phủ đầu của hắn.
Tin dữ từ Chu Diên đưa tới khiến Trưng Trắc đau đớn. Rồi ngay sau đó, Trưng Trắc ra lệnh nổi trống đồng họp binh quyết trả thù cho chồng, rửa nhục cho nước. Nghe tiếng trống ầm ào nổi lên, dân Mê Linh cung nỏ, dao búa, khiên mộc, giáo lao trong tay cuồn cuộn đổ về nhà làng. Trên bành voi cao, nữ chủ tướng Mê Linh mặc giáp phục rực rỡ. Dân Mê Linh trong thấy nữ chủ tướng đẹp đẽ, oai phong Lẫm liệt thì hò reo vậy đất, ào ào bám chân voi theo chủ tướng mà xóc tới. Trước khí thế ngút trời của đoàn quân khởi nghĩa, tòa đô uý trị của nhà Hán trên đất Mê Linh phút chốc đã tan tành. Dân Mê Linh đạp bằng dinh luỹ giặc tiến xuống Luy lâu. Trong đoàn quân trẩy đi phá quận Giao Chỉ của nhà Hán, ngày càng có thêm nhiều đoàn quân từ các nơi đổ về. Thành Luy lâu cũng không đương nổi cuộc công phá của một biển người ào ào xung sát, dũng mãnh theo hiệu trống đồng của Trưng Trắc, Trưng Nhị. Tô Định kinh hoàng cao chạy xa bay về Nam Hải chịu tội với vua Hán. Tin thắng trận dồn dập bay đi. Nỗi vui mừng quá lớn khiến cho người dân việc nhiều đêm liền không ngủ. Trải qua hàng chục đời, nay đất nước của vua Hùng mới được khôi phục, nợ nước thù nhà của chủ tướng Mê Linh đã được trả. Trai gái rìu đồng, giáo sắc nắm chắc trong tay, những chiếc lông chim cấm ngất ngưởng trên đầu, bộ áo lông chim xòe rộng theo nhịp trống đồng dồn dập như không bao giờ dứt. Tin thắng trận bay đi. Các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cũng nổi lên theo về với Hai Bà Trưng.
Đất nước sạch bóng quân thù. Hai Bà Trưng được cả nước tôn lên làm vua, đóng đô ở Mê Linh. Những nữ thủ lĩnh, nữ nam cừ suý được phong các chức tướng lĩnh rồi người nào trở về đất ấy dốc sức cùng dân xây cuộc đời mới.
Trưng nữ Vương quyết định miễn hẳn thuế khóa cho thiên hạ trong hai năm.
Năm Tân Sửu (41), vua Hán sai Mã Viện làm tướng quân, Lưu Long làm phó tướng cùng với quang lâu thuyền tướng quân là Đoàn Chí đem 20 vạn tinh binh kéo sang đáng Trưng Vương.
Một trận quyết chiến tối sầm cả trời đất giữa 20 vạn quân của Mã Viện với dân binh các làng chạ do Trưng Vương thống suất đã diễn ra ở Lăng Bạc. (Vùng từ Đông Triều Quảng Ninh đến Yên Phong- Bắc Ninh ngày nay) Quân Mã Viện đóng sẵn trên các triền đất cao giữa vùng Lăng Bạt lầy lội chuẩn bị tiến công Mê Linh thì bị Trưng Vương thu quân về giữ Cấm Khê (Vùng Thạch Thất, Quốc Oai – Hà Tây). Mã Viện lại kéo tới, một loạt trận huyết chiến nữa lại nổ ra, máu chảy đỏ sông Hồng, sông Đáy. Hơn 2 vạn người Việt nữa lại nằm xuống ở đây. Chiến trường chính chống lại cuộc đàn áp mang rợ của Mã Viện là 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân, tổng số dân mới có 91 vạn cả trẻ già lớn bé. Vậy mà chỉ trong mấy trận đánh, hơn 4 vạn người Việt đã bị giết và bị bắt. Quyết chống giặc đến cùng, sức lực của người Việt hầu như dốc cạn để sống mái với bọn Lang sói theo ý chí của Trưng Vương. Trong một trận đánh, sau khi phóng những ngọn lao và bắn những mũi tên cuối cùng, Trưng Trắc, Trưng Nhị đã gieo mình xuống dòng Hát Giang. Đó là ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Mão (43).
Nhà Đông Hán (25 – 220)
(Bắc Thuộc Lần Thứ Hai)
Mã viện đánh được Trưng Vương đem đất giao chỉ sáp nhập vào nhà Đông Hán rồi chỉnh đốn binh lương, đem quân đi đánh dẹp các nơi, đi đến đâu xây thành đắp lũy đến đó. Mã Viện còn cho dựng cây đồng trụ ở chỗ phân địa giới khắc sáu chữ “Đồng Trụ chiết. Giao Chỉ diệt” (Cây đồng trụ đổ thì người Giao Chỉ mất nòi). Người Giao chỉ đi qua chỗ ấy, ai cũng bỏ vào chân cột đồng trụ một hòn đá. Về sau chỗ ấy thành gò đá, đến nay không còn biết cột ấy ở chỗ nào.
Cũng như nhà Tây Hán, nhà Đông Hán gộp miền đất Âu Lạc cũ thành Châu Giao gồm 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, khoảng 50 huyện. Đứng đầu châu vẫn là thứ sử từ Trung Quốc cử sang. Thứ sử có quyền cắt đặt quan lại điều động binh lính ở trong châu. Ở mỗi quận có chức thái thú cũng là người Hán. Bên dưới quận là các huyện. Chế độ lạc tướng cha truyền con nối của người Việt ở cấp huyện bị bãi bỏ.
Thay cho các Lạc Tướng người Việt là những tên huyện lệnh người Hán. Luật cũ của người Việt bị bãi bỏ. Dân việc buộc phải theo luật Hán. Chính quyền đô hộ đặc biệt đẩy mạnh việc di dân Hán đến ở lẫn với dân Việt, bắt dân Việt phải theo phong tục tập quán sống như người Hán. Chúng bắt dân ta học chữ Hán và tiếng Hán, truyền bá các tư tưởng “thần phục thiên tử”, “quy phục thiên triều”.
Hàng năm chúng bắt dân ta phải nộp cống nào sừng tê, ngà voi, gỗ trầm, ngọc trai, đồi mồi, san hô, kể cả hoa quả quý như vải, nhãn, dứa v.v… Cả đến những thợ thủ công tài hoa cũng bị trở thành đồ cống.
Sử ghi: Sĩ Nhiếp mỗi năm thu hàng ngày tấm vải các bá, hàng trăm ngựa và nhiều thứ lâm thổ sản quý khác. Tôn Tư đã bắt hàng ngàn thợ thủ công có tài, khéo nghề tinh xảo sang xây dựng Kinh đô Kiến Nghiệp (Nam Kinh).
(Nguồn, Các triều đại Việt Nam, nhà xuất bản văn học 2008)
0 Nhận xét