Looking For Anything Specific?

Top Ad

TRUYỆN TRƯƠNG TRỌNG. LÝ TIẾN VÀ LÝ CẦM PHÁ LỆ. NHÀ ĐÔNG NGÔ (222 - 280). CUỘC HỞI NGHĨA CỦA TRIỆU THỊ TRINH (248)

 

Truyện Trương Trọng

          Trương Trọng, người quận Nhật Nam (Bình Trị Thiên, Quảng Nam) nhờ hay chữ nên được viên thái thú Nhật Nam lấy vào làm thuộc lại trong quận.

 Cuối năm 78, theo lệ nhà Hán, Trương Trọng được viên thái thú cử sang kinh đô Lạc Dương (Hà Nam) để tâu bày công việc trong quận lên vua Hán.

 Hán Minh Đế thấy Trương Trọng người thấp bé lại là dân “man di” bèn hỏi xách mé:

- Viên tiểu lại kia người quận nào ?

Trương Trọng trong lòng khó chịu nhưng điềm tĩnh đáp:

Tôi là người thay mặt thái thú quận Nhật Nam vào chầu vua chứ không phải một viên tiểu lại. Bệ hạ muốn dùng người tài cán hay chỉ muốn đo xương thịt ?

Bất ngờ bị đối thủ trả lời cứng cỏi lại đứng đắn vua Hán giận lắm nhưng không làm gì được.

 Mấy ngày sau, nhân tết Nguyên Đán vua mở tiệc yến, nhận thấy trong số các quan vào chúc Tết có Trương Trọng, vua Hán muốn rửa nhục bữa trước bèn hỏi Trương Trọng: “Nhật Nam” có nghĩa là “Phương Nam mặt trời”. Ta nghe nói tất cả nhà cửa xứ ấy đều quay về phương Bắc để trông thấy mặt trời có phải không ?

 Thấy vua Hán kiêu ngạo tự ví mình là mặt trời, bắt mọi người phải ngưỡng mộ sùng bái. Trương Trọng quyết trả miếng. Bởi thế, trước trăm quan cùng một tâm địa cậy thế nước lớn miệt thị nước nhỏ. Trương Trọng chậm rãi đáp: “Nhật Nam” không phải là phía nam mặt trời. Một bậc túc nho không ai hiểu như thế. Đất Trung Nguyên (Trung Quốc) có quận gọi là “Vân Trung” nhưng quận ấy có ở trong mây đâu ? Có quận gọi là “Kim Thành” nhưng có phải là thành xây bằng vàng đâu ? Ấy là đặt tên thế thôi chứ Thật không phải như thế. Lại nữa, ở nơi nào thì mặt trời cũng đều mọc ở đằng Đông, kẻ thất phu cũng hiểu được như thế. Còn ở xứ Nhật Nam không ai xoay về phương Bắc để trông thấy mặt trời. Ngược lại “lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam” là tục lệ của dân Nhật Nam. Chứ chẳng ai thay đổi được tục lệ đó.

 Vua Hán và quần Thần ngây người trước câu đối đáp rắn rỏi mạnh mẽ của viên sứ thần có tầm vóc bé nhỏ mà trí tuệ lớn. Về sau Trương Trọng được vua Hán cho làm thái thú quận Kim Thành.

 

 Lý Tiến Và Lý Cầm Phá lệ

 

Nhìn chung, các triều đại phong kiến Trung Quốc tự xem mình là “Thiên Tử” coi dân Việt Là “man rợ” nên người Việt dẫu có học hành thông thái cũng không được trọng dụng. Ngoài trường hợp Trương Trọng nói trên, mãi đến đời vua linh Đế (168 – 189) cuối nhà Đông Hán, mới lại có người Việt, nhờ học giỏi, được cất nhắc làm thái thú quận Giao Chỉ, được bổ đi làm quan bất kỳ quận nào, kể cả ở Trung Nguyên. Nhưng vua Hán chỉ cho những người đổ Mậu Tài hoặc Hiếu Liêm được làm quan trong xứ mà thôi. Lúc đó có người Giao Chỉ tên là Lý Cầm làm lính túc vệ trong cung, khẩn thiết xin vua Hán bãi lệnh đó. Nói mãi, vua Hán mới cử một người Giao Chỉ đỗ Mậu Tài đi làm quan lệnh ở Hạ Dương và một người đỗ Hiếu Liêm làm quan lệnh ở Lục Hợp.

 Thực tế đất Âu Lạc từng có những người đổ Mậu Tài, Hiếu Liêm, làm quan nhà Hán, bác bỏ luận điểm của các nhà sử học Trung Quốc cho rằng đất Giao Chỉ từ khi Sĩ Nhiếp (187 – 226) sang làm thái thú văn hóa mới phát triển, nền giáo dục mới được mở mang là không đúng.

 

Nhà Đông Ngô (222 – 280)

 

 Nhà Đông Hán mất, nước Trung Quốc phân làm ba nước: Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô. Đất Giao Châu lúc đó lại thuộc về Đông Ngô. Nhà Đông Ngô dẫn cho Sĩ Nhiếp làm thái thú.

 Năm Bính Ngọ (226): Sĩ Nhiếp mất, con là Sĩ Huy tự xưng làm thái thú: Ngô chủ là Tôn Quyền chi chia Giao Châu từ Hợp Phố về Bắc gọi là Quảng Châu, từ Hợp Phố về Nam gọi là Giao Châu. Sai Lữ Đại làm thứ sử Quảng Châu, Đài Lương làm thứ sử Giao Châu và Trần thì sang thay Sĩ Huy làm thái thú quận Giao Chỉ. Bọn Đại Lương và Trần thi sang đến Hợp Phố thì bị Sĩ Huy đem quân ra chống giữ. Thứ sử Quảng Châu là Lữ Đại một mặt đem binh sang đánh dẹp, mặt khác cho người dụ Sĩ Huy ra hàng. Sĩ Huy đem năm anh em ra hàng liền bị Lữ Đại bắn giết. Tôn Quyền lại hợp Quảng Châu và Giao Châu làm một và phong cho Lữ Đại làm thứ sử.

 

 Cuộc Khởi Nghĩa Của Triệu Thị Trinh (248)

 

 Bà Triệu, Triệu Trinh Nương hay Triệu Thị Trinh đều là tên các đời sau gọi người phụ nữ anh hùng dân tộc hồi đầu thế kỷ thứ III. Theo dã sử, Bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (225) Bà là em gái Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng lớn ở miền núi Quan Yên, quận Cửu Chân (Thanh Hóa). Ở đó cho đến nay vẫn còn lưu truyền nhiều truyền thuyết về thời kỳ bà chuẩn bị khởi nghĩa chống giặc Ngô. Đó là chuyện Bà Triệu thu phục được con voi trắng một ngà, chuyện “Đá biết nói” rao truyền lời thần dân mách bảo từ trên núi Quan Yên:

Có bà Triệu tướng

Vâng lệnh trời ra

Trị voi một ngà

Dựng cờ mở nước

Lệnh truyền sau trước

Theo gót Bà Vương..

 Triệu Thị Trinh là người có sức khỏe gan dạ và mưu trí năm 19 tuổi, bà cùng người anh tập hợp nghĩa quân, Lập căn cứ Phú Điền (Hậu Lộc - Thanh Hóa). Đấy là một thung lũng ở giữa hai núi đá vôi, vừa gần biển lại vừa là cửa ngõ từ đồng bằng phía Bắc Lào. Lúc đầu anh bà có ý can ngăn lo phận gái khó đảm đang trọng trách. Bà trả lời:

-Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông giành lại giang sơn, Cởi ách nô lệ, chứ không thèm cuí đầu, còng lưng để làm tì thiếp người ta.

          Mến mộ Bà, nghĩa quân ngày đêm mày gươm luyện võ, chờ ngày nổi dậy:

Ru con con ngủ cho lành

Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi.

Muốn coi lên núi mà coi

Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng.

 

Năm Mậu Thìn (248) nghĩa quân bắt đầu tấn công quân Ngô Các thành ấp của quân Ngô đều bị đánh phá tan tành. Bọn quan cai trị Kẻ bị giết, kẻ chạy trốn hết. Từ cửu chân, cuộc khởi nghĩa lan rộng nhanh chóng. Thứ xử Châu Giao hoảng sợ bỏ chạy mất tích. Sử sách của nhà Ngô phải thú nhận: “Toàn thể Châu Giao chấn động”.

Mỗi lần ra trận, Triệu Thị Trinh thường mặc áo giáp đồng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi dẫn quân xông trận, oai phong lẫm liệt. Quân Ngô kinh hồn, bạt vía đã phải thốt lên:

Hoàng qua đương hổ vị

Đối diện Bà Vương nan

Nghĩa là:

Vung giáo chống hổ dễ

giáp mặt vua Bà khó.

 Hay tin khởi nghĩa ở Cửu Chân và thứ sử Châu Giao mất tích, vua Ngô hốt hoảng phái ngay Lục Dận, một tướng từng kinh qua trận mạc, lại rất quỷ quyệt sang làm thứ sử. Lục Dận đem thêm 8.000 quân tinh nhuệ sang đàn áp. Lục Dận vừa đánh mạnh vừa đem của cải chức tước ra dụ dỗ mua chuộc các thủ lĩnh người Việt. Một số kẻ dao động mắc mưu theo địch. Mặc dầu vậy, Triệu Thị Trinh vẫn kiên cường đánh nhau với giặc Không nao núng. sau 6 tháng chống chọi vì có kẻ phản bội, bà đã hy sinh trên núi Tùng (Hậu Lộc, Thanh Hóa). Bây giờ bà mới 23 tuổi.

 Về sau, vua Lý Nam Đế khen là người trung dũng, sai lập miếu thờ, phong là: “Bật chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân”. Nay ở Phú Điền (Thanh Hóa) còn có đền thờ bà. 

Trong bài diễn ca lịch sử nước ta. Hồ Chí Minh ca ngợi:

Tỉnh Thanh Hoá có một bà,

Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi,

Tài năng dũng cảm hơn người,

Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương.

Phụ nữ ta chẳng tầm thường,

Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời,

 

(Nguồn, Các triều đại Việt Nam, nhà xuất bản văn học 2008)

 

Đăng nhận xét

0 Nhận xét