Theo truyền thuyết thì thủy tổ dân tộc ta là Kinh Dương Vương, hiện
còn có mộ tại làng An Lữ Thuận Thành, Bắc Ninh.
Nguyên Đế Minh là cháu ba đời
của vua Thuần Nông, đi tuần thú phương
Nam đến núi Ngũ Linh (Hồ Nam, Trung Quốc) đóng lại đó rồi lấy con gái bà Vũ
Tiên, sau đó xin được một người con trai tư chất thông minh đặt tên là Lộc Tục. Sau
Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi, làm vua phương Bắc và phong cho Lộc
Tục làm vua phương nam xưng là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương làm vua vào khoản năm Nhâm Tuất (279 trước Công Nguyên) và lấy con gái thần Long là vua hồ Động Đình
sinh được một con trai đặt tên là Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long
Quân, sao lấy con gái Đế lai là Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng,trăm trứng ấy nở
thành trăm con trai.
Một ngày, Long Quân nói với Âu Cơ rằng:“ta là giống Rồng, mình là
giống Tiên,thủy hoả khắc nhau, không ở cùng nhau được”.Hai người bèn chia con
mà ở riêng. Năm chục người theo mẹ về núi, năm chục người theo cha về biển,
chia nhau thống trị các xứ đó, đó là thủy tổ của các nhóm Bách Việt.Người con
trưởng trong số các con theo mẹ lên Phong Sơn, được tôn làm vua gọi là Hùng
Vương.
NƯỚC VĂN LANG VÀ CÁC VUA HÙNG
Theo sử cũ thì nước Văn Lang chia làm 15 bộ:
1.Văn lang (Bạch Hạc, Phú Thọ)
2. Châu Duyên (Sơn Tây)
3. PhúcLộc(Sơn Tây)
4. Tấn Hưng (Hưng Hóa -Tuyên Quanh)
5. Vũ Định (Thái Nguyên - Cao Bằng)
6. Vũ Ninh (Bắc Ninh)
7. Lục Hải (Lạng Sơn)
8. Ninh Hải (Quảng Ninh)
9. Dương Tiến (Hải Dương)
10. Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình)
11.Cửuchân (Thanh Hóa)
12. Hoài Hoan(Nghệ An)
13.Cửu Đức (Hà Tĩnh)
14. Việt thưởng (Quảng Bình, Quảng Trị)
15.Bình Văn (?)
Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu (Việt Trì, Phú Thọ)đặt tướng văn
là Lạc Hầu, tướng Võ là Lạc Tướng, Con trai vua gọi là Quan Lang, Con gái vua gọi
là Mỵ Nương, các quan nhỏ gọi là BồChính.
Thời ấy người Văn Lang lấy vỏ cây làm áo, bệnh cỏ Làm chiếu, lấy
nước nhựa cây làm rượu, Lấy bột cây quanh lang làm cơm (tức cây đao, thân to
như cây cọ, thân cây có bột ăn được) lấy cầm thú ngư trùng làm mắm, lấy rễ gừng
làm muối.Cày bằng đao, cắt bằng lửa, làm cơm nếp bằng ống tre, gác cây làm nhà
sàn, cắc ngắn tóc để đi trong rừng cho tiện, khi có người chết thì lấy cối chày
không ra mà giã để báo tin cho hàng xóm, trai gái lấy nhau chưa dùng trầu cau
mà lấy phong muối làm đầu, v.v…
Đời Hùng Vương thứ nhất, người nước Văn Lang làm nghề chài lưới, cứ
hay bị thuồng luồng làm hại,Vua mới bắt dân lấy chàm vẽ mình để thú dữ tưởng là
đồng loại không làm hại được nữa (Tục xăm mình này đến đời vua Trần Anh Tông mới
bỏ).
Sử cũ cũng chép thuyền của ta ở đằng mũi hay làm hai con mắt, để
thủy quái ở sông, bể trông thấy mà sợ.
Thông qua những truyền thuyết trong 15 bộ lạc vừa kể trên, bộ lạc
Văn Lang mạnh nhất.Bộ lạc này có vị thủ lĩnh tài ba, thu phục được các bộ lạc
khác và trở thành thủ lĩnh liên minh các bộ lạc rồi chuyển thành người cầm đầu
cả 15 bộ lạc.Vị thủ lĩnh lỗi lạc ấy gọi là Vua Hùng,cha truyền con nói.
Cả nước ấy chia ra 15 bộ.Đứng đầu mỗi bộ là Lạc tướng, cũng Cha
truyền con nói.Dưới bộ là các công xã nông thôn, đứng đầu là BồChính (già làng).Mỗi
công xã có một ngôi nhà chung để làm nơi hội họp và sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng.
Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng đơn giản, mới hình thành nhưng
đã cố kết được lòng người.Từ tình cảm cộng đồng dẫn đến ý thức cộng đồng.Họ bước
đầu hiểu được mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người, thấy được sức mạnh của
cộng đồng trong việc làm Thủy Lợi, trao đổi sản phẩm và đấu tranh giữ gìn làng
bản, đất nước:
Trong thời Hùng Vương có hai truyền thuyết được lưu truyền rộng
rãi trong dân gian thể hiện tinh thần này.
Phù Đổng Thiên Vương:
Đời Hùng Vương thứ Sáu giặc Ân rất hùng mạnh, dường như không ai địch
nổi khi kéo sang xâm lược nước Văn Lang,Thế giặc mạnh lắm, quan quân không sao
chống cự nổi. Nhà vua lo lắng cho mời các quan trong triều để bàn kế phá giặc.Các
quan tâu vuaxin cho sứ giả đi rao tìm người tài giỏi ra giúp nước.Vua nghe theo
kế ấy.
Lúc bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Vỏ Ninh có một nhà giàu, 62 tuổi mới
sinh được một con trai lên ba mà vẫn chưa biết nói.Cậu bé suốt ba năm chỉ nằm ngửa
không tự ngồi hay đứng được.
Khi sứ giả đến làng rau cầu hiền, cậu bé thốt nhiên nói được và
xin với cha cho mời sứ giả nhà vua vào hỏi chuyện.Khi sứ giả đến, cậu bé xin sứ
giả về tâu vua đúc cho cậu một con ngựa sắt, mộtthanh gươm, một cái nón sắt rồi
cậu ra quân diệt giặc.
Từ khi xứ nhà vua về, cậu bé mỗi ngày một lớn, ăn khỏe lạ thường,Ngày
tháng qua, cậu lớn phổng lên đến nỗi phải làm nhà riêng để ở.
Khi giặc Ân kéo đến núi Châu Sơn (Tiên Du, Bắc Ninh) thì sứ giả
đem kiếm, ngựa dâng cho cậu.Cậu vươn vai đứng dậy rồi nhảy lên ngựa ra mà ra roi.Ngựa
chạy đến đâu miệng phun ra lửa đến đó.Trên mình ngựa, cậu sông vào đội ngũ giặc,sải
kiếm chém giặc như chém chuối. Kiếm gãy, cậu nhổ cả cụm tre mà đánh.Không đương
nổi sức mạnh thần thông của chàng trai Phù Đổng,quân giặc còn lại quỳ gối xin
hàng.
Phá được giặcÂn rồi, người anh hùng làng Phù Đổng đi đến núi Sóc
Sơn thì biến mất.Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng: về sau được
phong là XungThiên Thần Vương.Hàng năm đến mùng 8 tháng 4, làng Phù Đổng (còn gọi
là làng Giống) mở hội vui lớn, tục gọi là hội Giống.
Sơn Tinh Thủy Tinh:
Vua Hùng Vương thứ 18 có một
người con gái tên là Mỵ Nương, sắc đẹp tuyệt trần. Mỵ Nương được vua cha thương
yêu rất mực.Nhà vua muốn kén cho nàng một người chồng xứng đáng. Sơn Tinh và Thủy
Tinh đều muốn hỏi nàng làm vợ. Sơn Tinh người ở núi Ba Vìtuấn tú và tài giỏi
khác thường.Chàng chỉ tay về phía đông phía đông biến thành đồng lúa xanh, chỉ
tay về phía tây, phía tây mọc lên hàng dãy núi.Còn Thủy Tinh ở mãi tận biển Đông
cũng tài giỏi không kém: gọi gió, gió đến; hô Mưa, mưa về.Một người là chúa của
miền non cao, còn người kia là chúa của vùng nước thẩm, đều xứng đáng làm rể
vua Hùng.
Vua Hùng băn khoăn không biết
nhận lời ai, bèn phán rằng:
Hai người đều vừa ý ta cả nhưng ta chỉ có một người con gái, biết
gả cho ai?Vậy, ngày mai, nếu ai dẫn lễ cưới đến đây trước:một trăm ván cơm nếp,
một trămtệpbánh chưng, voi chín ngà,gà chín cựa, ngựa chín hồng mao thì được rước
dâu về.
Sớm hôm sau Sơn Tinh đem đầy đủ lễ vật đến trước và được phép đưa
dâu về núi.
Thủy Tinh đến sau không lấy
được Mỵ Nương, đùng đùng nổi giận đem quân đuổi theo,một hai đòi cướp lại Mỵ
Nương. Thủy Tinh còn hô mưa gọi gió làm thành giông, bão,sấm sét,rung chuyển trời
đất, dâng nước sông lên cuồn cuộn tiến đánh Sơn Tinh.Nước ngập lúa, ngập đồng,
ngập cả nhà cửa.
Sơn Tinh không hề nao núng dùng phép bóc từng quả đồi, từng dãy
núi chặn đứng dòng nước lũ.Nước dâng lên cao bao nhiêu. Sơn Tinh làm cho đồi
núi mọc cao Lên bấy nhiêu. Sơn Tinh lại dùng sấm sét đánh xuống.Thủy Tinh cuối
cùng phải chịu thua rút quân về.Từ đó Sơn Tinh và Thủy Tinh thù nhau. không năm
nào Thủy Tinh không làm mưa làm bão dâng nước lên đánh Sơn Tinh, gây nên nạn lụt
lội khắp vùng đồng bằng và trung du nước ta. Nhưng lần nào Thủy Tinh cũng phải
thua.
Câu chuyện có ý nghĩa này phản ánh một thực tế hàng năm vào tháng
6 và tháng 7, Bắc Bộ bị lũ lụt, nước tràn vào đồng áng, tàn phá mùa màng, khiến
nhân dân phải đắp đê ngăn lũ vô cùng vất vả.
Tổng kết giai đoạn lịch sử này Hồ Chí Minh, trong bài diễn ca Lịch
Sử Nước Ta, viết:
“Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà
Việt Nam,
Kể năm hơn bốn ngàn năm,
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận
hoà.
Hồng Bàng là tổ nước ta.
Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang.
Thiếu niên ta rất vẻ vang,
Trẻ con Phù Đổng tiếng vang
muôn đời,
Tuổi tuy chưa đến chín mười,
Ra tay cứu nước dẹp loài
vô lương.
An Dương Vương thế Hùng Vương,
Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị
dân.”
(Nguồn, Các triều đại Việt Nam, nhà xuất bản văn học 2008)
0 Nhận xét